Câu 3. Trong hai câu 5,6 phần dịch nghĩa, tác giả đã sử dụng những biểu tưởng quen thuộc nào của thơ trung đại để bày tỏ nỗi lòng?
Cảm hoài (Nỗi lòng) - Đặng Dung
Phiên âm
Thế sự du du nại lão tử,
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
Thời lại đồ điếu thành công dị,
Vận khí anh hùng ẩm hận đa.
Trí chủ hữu hoài phủ địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
Kỉ độ Long Tuyền đới nguyệt ma.
Dịch nghĩa
Việc đời dằng dặc, mà ta đã già, biết làm thế nào?
Trời đất không cùng, thu cả vào cuộc say ca.
Cặp thời, người hàng thịt, kẻ đi câu cũng dễ thành công
Lỡ vận, những bậc anh hùng cũng đành nuốt hận.
Giúp chúa, những muốn xoay trục đất,
Rửa binh khí, tiếc không có lối kéo sông Ngân xuống.
Thù nước chưa trả được, mà đầu đã bạc,
Bao phen mài gươm Long Tuyền dưới trăng
Dịch thơ
Thế sự ngổn ngang đã vội già,
Đất trời bất tận cuộc say ca.
Gặp thời đồ điếu công thành dễ,
Lỡ cận anh hùng hận xót xa.
Phò chúa đốc lòng nâng trục đất,
Tẩy binh khôn lối kéo Ngân Hà.
Quốc thù chưa trả đầu sao bạc,
Bao độ mài gươm ánh nguyệt là.
Nguyễn Khắc Phi dịch
Nguyễn Khắc Phi (Chủ biên), Kiến thức bổ trợ Ngữ văn 10 Nâng cao, tập một, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2008, tr.148)
Cảm hoài (Nỗi lòng)
Đặng Dung
Trong lịch sử và trong cuộc sống đời thường, có những thất bại khiến cho người đời không chỉ cảm thấy buồn thương, tiếc nuối mà còn nể phục, kính trọng. Hãy kể về một thất bại như thế và cho biết điều gì gây ấn tượng với bạn.
Đặng Dung (? – 1414) quê ở huyện Thiên Lộc, nay là huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Dưới triều nhà Hồ, ông giúp cha là tướng quân Đặng Tất cai quản đất Thuận Hoá5). Khi quân Minh xâm lược nước ta, ông cùng cha tham gia cuộc khởi nghĩa của Trần Ngỗi, lập nhiều công lớn, trong đó có trận thắng Bô Cô hiển hách. Đáng tiếc là Trần Ngỗi nghe lời gièm pha, nghi kị và giết Đặng Tất. Đặng Dung bỏ Trần Ngỗi, tôn Trần Quý Khoáng làm minh chủ, chỉ huy nghĩa quân giao chiến với quân Minh hàng trăm trận. Năm 1414, khi thua trận, bị giặc Minh bắt giải sang Trung Quốc, ông đã tuẫn tiết trên đường đi.
Cảm hoài là tác phẩm duy nhất còn lại của Đặng Dung, được đời sau ca tụng là “Phi hào kiệt chi sĩ bất năng” (“Nếu không phải là kẻ sĩ hào kiệt thì không thể làm nổi” – Lý Tử Tấn). Bàithơ có nhiều dị bản; câu thứ tư, sách Việt âm thi tập (ảnh minh hoạ, tr. 42) chép là sự khứ (việc đã qua rồi), một số bản Toàn Việt thi lục chép là vận khứ (vận đã qua). Người biên soạn sách giáo khoa dẫn nguyên văn bài thơ theo Thơ văn Lý – Trần, tập III, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978, tr. 517 – 518.
(1) Nguyên văn là hàm ca, chỉ việc uống rượu say mà hát hoặc việc chìm đắm trong say sưa, ca múa, biểu thị trạng thái tinh thần thống khổ hay phấn khích.
(2) Nguyên văn là đồ điếu (đồ: mổ – giết súc vật, người làm nghề giết mổ; điều: câu cá, người câu cá) liên hệ đến sự tích đời Hán (Trung Quốc), thuở hàn vi Phàn Khoái làm nghề bán thịt, Hàn Tín làm nghề câu cá, về sau cả hai đều làm nên nghiệp lớn.
(3) Vận: vận hội, cơ hội; ở đây có nghĩa là cơ may, dịp may.
() Nguyên văn là phù địa trục, ý nói xoay chuyển tình thế, thay đổi vận mệnh của đất nước. (2) Nguyên văn là tẩy binh, ý nói chấm dứt chiến tranh, lập lại cuộc sống hoà bình.
(3) Sông Ngân: nguyên văn là thiên hà, mượn ý tứ từ câu thơ trong bài Tẩy binh mã (Rửa khí giới) của Đỗ Phủ: “An đắc tráng sĩ vãn thiên hà/ Tĩnh tẩy giáp binh trường bất dụng” (“Ước gì có tráng sĩ kéo nước sông Ngân xuống/ Rửa sạch khí giới, mãi mãi không dùng nữa”).
Long Tuyền: một trong hai thanh gươm quý (trong truyền thuyết Trung Hoa); thường được dùng với nghĩa biểu trưng chỉ hoài bão hành đạo giúp đời, “bình thiên hạ” của những bậc anh hùng hào kiệt thời phong kiến.
(5) Thuận Hoá: tên gọi cũ của vùng đất nay thuộc địa bàn các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng.